Các quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại trong pháp luật Việt nam
Các quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại trong pháp luật Việt nam
1. Hệ thống các văn bản của Việt Nam về thả thuận trọng tài thương mại
Chế định trọng tài du nhập vào hệ thống pháp luật nước ta từ cuối thế kỷ XIX. Trong một tranh chấp đất đai năm 1897, tòa thượng thẩm Sài gòn xét rằng “trọng tài được thừa nhận trong pháp luật An Nam” trong thời gian này, các Bộ luật Dân sự rồi Tòa án thương mại lần lượt ra đời. Cuối thế kỷ XIX đầu thế ỷ XX chế định trọng tài đã là một phần trong pháp luật Tố tụng dân sự. Cuối thế kỷ XX nhiều sự kiện đã là thay đổi vận mệnh quốc gia trong đó có hệ thống pháp luật. Theo đó, chế định về trọng tài trong pháp luật Việt Nam dần hình thành như sau: Năm 1993 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 204/TTg về việc thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ngày 28/02/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 05/09/1994 của Chính Phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế. Năm 1996, hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước giải thể, từ đó việc giải quyết tranh chấp kinh tế được thực hiện bằng hai phương thức: Tòa kinh tế thuộc hệ thống Tòa án nhân dân và các Trung tâm Trọng tài kinh tế phi chính phủ. Sự ra đời của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 cho hoạt động Trọng tài Thương mại theo thông lệ quốc tế là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật về trọng tài Việt Nam. Hiện nay, Luật Trọng tài thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003. Với 13 chương, 82 điều, Luật trọng tài thương mại đã thể chế hoá một cách đồng bộ cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trong tài ở nước ta trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003.
2. Những quy định cụ thể về thỏa thuận trọng tài thương mại
a) Quy định về vấn đề thẩm quyền gải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng
Khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 đã quy định: “Thỏa thuận trọng tài thương mại là việc thỏa thuận giữa các bên về gải quyết bằng Trọng tài thương mại các tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.” Định nghĩa này vẫn chưa làm rõ tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng có được giải quyết bằng trọng tài thương mại hay không. Vấn đề này liên quan đến việc xác định thẩm quyền và phán quyết của trọng tài thương mại. Bởi vì quan hệ thương mại rất đa dạng và phong phú, có quan hệ được viết bằng hợp đồng cụ thể giữa các bên nhưng cũng phát sinh nhiều vấn đề ngoài ý muốn nhất là bồi tường thiệt hại ngoài hợp đồng.
b) Về hình thức thỏa thuận của trọng tài
Có thể thấy rằng, luật trọng tài các nước thường quy định một thỏa thuận trọng tài phải được làm thành văn bản. Văn bản này có thể là một quy định sẵn trong hợp đồng, hoặc một thỏa thuận riêng biệt ngoài hợp đồng chính. Văn bản có thể được thể hiện dưới hình thức tài liệu, telex, thư điện tử ,… Ngoài ra, một số nước còn có quy định cụ thể hơn về hình thức thỏa thuận trọng tài ký kết với người tiêu dùng. Chẳng hạn, luật của Anh quy định thỏa thuận trọng tài ký kết với người tiêu dùng phải phù hợp với quy định về pháp luật bảo về người tiêu dùng. Luật của Đức quy định thỏa thuận trọng tài với người tiêu dùng phải được làm thành văn bản riêng.
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 tại Điều 16 quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài thì thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản như Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng các hình thức theo quy định của pháp luật; Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Như vậy, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức của thỏa thuận trọng tài được lập thành văn bản và không phụ thuộc vào yếu tố nó là một điều khoản hay là một văn bản riêng biệt. Việc quy định như vậy nhằm hạn chế những tranh chấp xảy ra sau này về thỏa thuận trọng tài cũng như để làm căn cứ khởi kiện ra trọng tài thương mại hay tòa án có thẩm quyền.
c) Vấn đề thảo thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thỏa thuận được
Luật trọng tài thương mại 2010 mới cũng đã khắc phục được sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các trường hợp vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 giới hạn sáu trường hợp theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu với những quy định cụ thể và rõ ràng hơn so với những quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Luật trọng tài thương mại 2010 còn quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (khoản 5 Điều 43 Luật trọng tài thương mại 2010). Quy định này sẽ hạn chế tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không xác định được cơ quan nào giải quyết tranh chấp. Theo Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, tức là tranh chấp không thuộc hoạt động thương mại và các quy định thuộc Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010.
Thứ hai, người xác lập trọng tài thương mại không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Chủ yếu người xác lập không có thẩm quyền theo pháp luật thương mại, không được ủy quyền hợp pháp theo luật doanh nghiệp.
Thứ ba, người xác lập trọng tài thương mại không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Mục 1 Chương III của Bộ luật dân sự năm 2005. Về độ tuổi, phải đủ 18 tuổi trở lên (Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005). Về nhận thức, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Thứ tư, hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật trọng tài thương mại 2010.
Thứ năm, một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được lại không được quy định rõ ràng trong Luật trọng tài thương mại 2010. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận định rằng, thỏa thuận trọng tài không thực hiện được khi một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, mà không có người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó và các bên không có thoả thuận khác. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể và không có tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó và các bên khồn có thoả thuận khác.
Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được: thỏa thuận không trái pháp luật nhưng lại không có các điều kiện thực hiện, không có tính khả thi hoặc không tồn tại đối tượng theo yêu cầu.
d) Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài.
Trên thực tế thoả thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào hợp đồng thương mại (như hợp đồng mua bán hàng hoá, mua bán bản quyền, vận chuyển,...). Thực tế, điều khoản trọng tài có thể được hiểu là “một hợp đồng trong một hợp đồng”.
Chúng ta không nên lẫn lộn điều khoản trọng tài với hợp đồng chính mà nó dẫn chiếu tới. Bởi đây là hai loại thoả thuận có đối tượng pháp lý hoàn toàn khác nhau: Điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên còn Hợp đồng chính quy định nghĩa vụ và quyền lợi của các bên. Thông thường điều khoản trọng tài có một mức độ độc lập nhất định đối với hợp đồng chính. Điều khoản này không bị tác động bởi những lý do vô hiệu của hợp đồng chính. Nói một cách khác, việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng tới tiến trình tố tụng bằng trọng tài.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là hợp đồng chính không có ảnh hưởng gì tới điều khoản trọng tài. Có những lý do vô hiệu có tác động tới cả hai thoả thuận trên như vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký kết hoặc sự không có năng lực trong ký kết hợp đồng của các bên.
Điều 19 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”. Quy định này hoàn toàn thống nhất với các quy định của pháp luật quốc tế.
đ) Thẩm quyền xem xét hiệu lực và luật áp dụng để xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Một nguyên tắc căn bản trong luật trọng tài các nước trên thế giới là hội đồng trọng tài có thể tự quyết định thẩm quyền của mình. Điều này có nghĩa là nếu một bên có khiếu nại về việc vụ tranh chấp hoặc một khía cạnh nào đó trong vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc này trước hết sẽ do hội đồng trọng tài quyết định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thẩm quyền xem xét hiệu lực của trọng tài thương mại thuộc về hai cơ quan chính: trọng tài và tòa án. Nếu các bên gửi đơn ra trọng tài thì trọng tài có thẩm quyền xem xét hiệu lực của trọng tài thương mại này (Điều 43 Luật trọng tài thương mại 2010). Tuy nhiên, nếu một bên gửi đơn ra tòa kèm theo trọng tài thương mại thì Tòa án sẽ xem xét hiệu lực của trọng tài thương mại (Điều 6 Luật trọng tài thương mại 2010). Tuy nhiên, luật nào sẽ là luật áp dụng để xem xét hiệu lực của trọng tài thương mại. Vấn đề này không được quy định cụ thể trong Luật trọng tài thương mại 2010, nhưng theo thông lệ xét xử, luật áp dụng sẽ tuân theo nguyên tắc luật tòa án thụ lý luật nơi tọa lạc của trọng tài. Như vậy, khi một vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài tại Việt Nam, pháp luật áp dụng để xem xét hiệu lực của trọng tài thương mại sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010.